Monday, June 8, 2020

Bài viết mới của Ch/h Bùi Đức Tính

Có Audio đính kèm ở cuối bài viết

“Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”


Cang nhướng mắt ngó ra ngoài đường:
- Hết mưa rồi…
Mưa đến bất ngờ, ào ạt một lúc, giờ như hết nước, mưa dứt ngang. Nó đeo lại kính cho ngay ngắn. Tròng kính dày cộm, đè nặng trên sóng mũi.
- Tao phải dìa trước,… làm bài.
- Ừ, dìa học đi Cang. Tụi tao ngồi thêm một lúc, cho mầy dễ học.
- Có sao đâu. Tụi bây dìa lúc nào cũng được…. Tao không khóa cửa.
Cang dặn dò rồi đứng lên. Nói thì vậy, nhưng khi nghe bạn mình đi về, bọn tôi cũng muốn về. Bình trà nhẹ bỗng, Vẹn để xuống:
- Thôi, mình đi về với thằng Cang luôn đi!
Tối nay, bọn tôi không hứng thú ngồi quán hay đi lang thang đến khuya khoắt như mấy đêm trước. Phát gọi Cang:
- Chờ tao trả tiền. Tụi mình cùng về!
Chẳng ai có ý kiến gì thêm, bạn bè lặng thinh, lục đục đứng dậy theo Cang, lững thững đi ra ngoài quán. Tôi đưa gói thuốc hút cho đám bạn. Bốn đứa đứng hút thuốc, chờ Phát trả tiền cà phê.
Sau cơn mưa, buổi tối mát lạnh làm khói thuốc thêm nồng ấm. Cang hít hơi thuốc dài:
- Tụi mày nên về ngủ sớm … mai đi trình diện.
- Ừ… sáng, tụi tao đi sớm.
Phát Thái (có hai đứa cùng tên Phát, chúng tôi gọi kèm họ để phân biệt) đồng ý bạn mình. Cang là bạn của Phát Thái. Không như bốn đứa tôi, Cang còn được đi học tiếp. Nó được hoãn dịch vì là con một và bị cận thị nặng.
.  .  .
Từ cuối năm học, luật động viên ban hành, đã chuẩn bị tinh thần cho gia đình và cho các thanh niên trong hạng tuổi. Ba tôi đã từng nhập ngũ hai lần, trải qua chương trình “Rừng-Núi-Sình Lầy” ở Trung tâm Huấn luyện Dục Mỹ. Ba tôi theo các đơn vị từ hải đảo Phú Quốc xa xôi, sau cùng về phục vụ tại Vùng 4. Có lần, tôi theo mẹ đi thăm ba; căn cứ nơi Đất Đỏ của Xuyên Mộc, bụi đỏ trên áo trắng đồng phục tiểu học. Tôi cho ba tôi biết ý định đi lính của mình. Hôm sau, tôi báo cho đám bạn biết sẽ trình diện nhập ngũ. Nghe vậy, hai thằng Phát và Vẹn gật gù:
- Tụi mình trình diện một lượt cho vui!
Phát Thái bày vẻ thêm chương trình:
- Có thằng Cang, nó mướn nhà trọ trên đường Lê Văn Duyệt. Tao nói nó cho tụi mình ngủ nhờ vài đêm. Ban ngày tụi mình kéo nhau đi chơi, khi nào hết tiền hay chán phố phường thì mình đi trình diện.
Thế là cả ba đứa kéo nhau lại nhà bạn mình, để giúp bạn trình bày với cha mẹ là… “con đi lính, hết giặc về… Ba Mẹ đừng lo!”.
Làm sao mà “đừng lo” cho được!
Cha mẹ cũng biết là mấy đứa con nó nói cho mình an tâm, vậy thôi.
Nhưng có mặt cái đám bạn bè của con mình, rầy rà thằng con không tiện cho lắm. Mà nói hay rầy, thì rầy nói gì bây giờ. Lại nghe tụi nó nói tỉnh queo, giống như là mấy lúc tụi nó kéo lại nhà, xin phép rủ nhau đi chơi một chút rồi về. Chuyện đi lính đâu phải một chút rồi về. Mẹ nào nghe chuyện ra đi như thế này, cũng nước mắt lưng tròng. Tôi bấm bụng, lấy chuyện đi lính của ba tôi mà an ủi các bậc sinh thành: “Dạ… Ba của cháu cũng có đi lính. Ông cũng được giải ngũ. Sau này lại nhập ngũ và rồi cũng giải ngũ ….”
Bài hát “Anh Đi Chiến Dịch” của Phạm Đình Chương nghe hoài. Hồi nhỏ chưa biết “chiến dịch” nghĩa là gì. Rồi lớn lên, tôi hiểu lời nhạc, nhưng chưa hề biết thấm thía, dù là hai chữ giản dị “anh đi” như bây giờ.
“Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”
Thời này, đi lính mà. Biết chừng nào về!
Đứa nào cũng biết, nói thì nói vậy; chọn làm lính trận, thời này, mấy ai dám hẹn ngày về. Súng đạn vô tình. May với rủi. Coi như, số phận đã an bài.
Ba tôi đã biết hết mọi chuyện từ cuối năm học. Chỉ lo cho mẹ tôi mà thôi. Biết là, mỗi lần báo tin với các bậc sinh thành, đều có kinh nghiệm hơn. Tôi nhờ bạn bè đến nhà tôi sau cùng, cho êm xuôi hơn.
- Chừng nào mấy đứa con… đi?”
Mấy hôm nay, đã ba lần nghe câu hỏi này và ba lần trả lời. Vậy mà, khi mẹ tôi hỏi, tôi không trả lời được. Ba tôi phải nói giùm.
Nhà tôi nằm trên đường bay của trực thăng đến Bệnh viện Dã chiến. Gọi là “dã chiến” nhưng bệnh viện có tường vách kiên cố, nằm ở đây từ trước khi tôi chào đời và không biết sẽ đến bao giờ mới hết là “dã chiến”. Trong lòng trực thăng sắp đáp xuống, hầu hết đều chở về những thân thể không vẹn toàn, hay poncho đã phủ kín đời người lính trận. Từ hôm tôi và bạn bè báo tin, khi có tiếng trực thăng bay xuống bệnh viện, không như trước đây, mẹ tôi thường dừng tay làm công chuyện, lắng nghe tiếng trực thăng.
Đêm đấu tố, và thủ tiêu. Đêm săn bắt cho đầy chỉ tiêu!
Đêm đen và bạo tàn không phải chỉ ở xa xôi, nơi miền Bắc. Tuổi trẻ đã sớm chứng kiến thân xác của đồng bào miền Nam mình, trong những hố chôn người, từ Tết mậu Thân 1968. Chiến tranh, từ biệt, tử sinh đã rất thực, lần bước vào bên trong khung cửa yên ấm của gia đình; hiện hữu, mãi mãi.
Đêm Việt Nam!
Việt Nam nước tôi buồn tênh!  
Rồi ngày hẹn nhau cũng đến. Dù đã biết, phải có lúc con mình rời tổ ấm. Bạn bè và tôi đã tập tành rời tổ ấm từ lúc mới học lớp Đệ Ngũ, lớp 8 bây giờ; chúng tôi xa nhà, sống với nhau trong Ký Túc Xá. Thế nhưng, bây giờ là rời nhà để đi lính, nhập ngũ tòng chinh, chứ không phải đi học. Mấy đứa em của chúng tôi đều đi học từ sáng, chỉ còn từ biệt mẹ cha. Thấy con mình rời nhà, đi lính cùng với đám bạn từ thời tiểu học, cha mẹ chừng như có phần yên tâm hơn. Tuy vậy, chứng kiến ánh mắt buồn hiu của người cha và mẹ thì quay đi để dấu nước mắt. Đám con trai cũng bối rối, chỉ lập bập mấy tiếng:
- Dạ… tụi con đi…
Vậy rồi, chúng tôi đi.
Đi nhanh như chạy trốn. Trốn nhìn mẹ nhìn cha, của mình và của bạn bè. Trốn sợ đối diện với lo buồn. Sáng nay, cả bốn đứa, không đứa nào dám ngồi lại ăn sáng với gia đình, trước khi đi. Sợ rằng kéo dài lúc chia tay, càng thêm quyến luyến, nát thêm trong lòng. Ra bến xe, không bụng dạ nào muốn ăn sáng. Ly cà phê sáng hôm ấy đắng nghét, khét lẹt.
Cà phê tối nay cũng đắng nghét!
Phát trở ra, đưa cho mỗi đứa một gói Bastos Xanh.
- Em nói, chúc mấy anh đi lính bình an!
Thừa biết “em” đây là ba chị em trong quán cà phê. Phát Thái cầm gói thuốc lắc lắc, trêu chọc:
- Hèn chi, mày dành trả tiền.
- Tao dành hồi nào đâu?... Đúng là làm ơn cho tụi mày còn bị mắc oán!
Phát than trách mà miệng cười tươi, khó hiểu, trông như đang bay trên chín tầng mây. Thế là, chúng tôi có dịp ùa vào tra khảo:
- Làm sao mà “em” biết “mấy anh” này đi lính?
- Thì tao nói… anh phải dìa ngủ sớm, mai đi trình diện.
- Trời ạ! Chưa thấy ai tán gái như mày! Ở đây thêm vài ngày, mấy em trong thành phố Sài Gòn này thấy mặt tụi mình là chúc “mấy anh đi lính bình an”… Mày làm như chỉ có tụi mình đi lính!
- Thì… có sao tao nói vậy.
- Rồi, cũng được… Mà mày hẹn hò xong hết chưa?
- Đi lính… biết gì mà hẹn.
Tôi có hai người cậu cũng học ở Thủ Đức, nên biết chút ít:
- Còn trong quân trường thì hẹn gặp ở Khu Tiếp Tân.
- Lên tới Thủ Đức xa quá!
- Xa gì! Sài Gòn – Thủ Đức mà xa gì!
- Mày làm như đã là… người tình trăm năm!
- Thì phải có một ngày, mới có tới trăm năm chứ.
Tôi mằn mò bao thuốc hút xem còn được bao nhiêu điếu. Thấy được bốn đầu thuốc lá. Chia thuốc trong gói cho đám bạn. Lấy điếu cuối cùng cho mình xong, tôi rút tờ giấy mạ bạc lót trong bao thuốc ra. Xếp trang giấy trắng ra ngoài, tôi đưa tờ giấy cho Phát, nửa đùa nửa thật:
- Ghi địa chỉ quán đi. Cất để dành mà gởi thư hẹn hò.
- Mày có biết tên em chưa?
- Tên thì tụi mày cũng biết, nói gì tao, nhưng… tao quên hỏi họ.
- Vậy thì trớt quớt rồi! Mày trở vô hỏi đi.… Tụi tao chờ cho.
Phát ngó vô quán, rụt vai:
- Có ông già!
- Tiệm quán thì thiếu gì ông già vào uống cà phê… Ông già mà mày sợ à?
- Không… không phải ông già, mà là “ông già”, đó mà!
- Coi vậy mà nhát há!
- Tội cho mày quá! Không cần họ đâu… có tên là được rồi. Chỉ cần ghi cho đúng địa chỉ là ngon lành. Thư tới em ngay.
Vẹn hù dọa thêm:
- Mấy em đi học. Thư tới “ông già” là cái chắc rồi.
- Ừ! Thì… cầu may vậy.
- Cầu may chi!... cầu “chú” Cang đây nè.
Cang nghe vậy, ra giá:
- Mỗi thư là một chầu cà phê, tao cho “ghi sổ”.
Cang đồng trang lứa. Có lẽ vì Cang mang kiếng cận, nói ít, ít đùa giởn, trông chững chạc, đạo mạo hơn bọn tôi, nên thường bị các cô gọi là “chú”. Phát chịu ngay:
- Cà phê thì cà phê…. Thôi, mình đi, cho “chú” Cang dìa học bài.
Quấy rầy chỗ ở trọ của Cang đêm nay là ba đêm.
Tối nay, bạn bè gom ra ngoài “hàng ba”, cái thềm nhà phía trước; để yên cho Cang làm bài. Xị rượu hôm qua, còn chút ít trong chai. Tối nay, không mời, không ép; nãy giờ chưa ai đụng tới. Bốn đứa ngồi ngó trời, ngó nhau, hồn ai nấy thả. Ba ngày qua, đây đó vô định, tùy hứng, tùy thích, bất cần biết ngày mai sẽ đi đâu, hay sẽ làm gì kế tiếp. Cũng phố phường thân yêu, cũng áo tiểu thư, và vẫn còn đó nét thơ ngây, nụ cười hồn nhiên, ánh mắt vô tư... Định rong chơi ít nhất một tuần. Thế nhưng, ba ngày nay, tất cả chừng như bị cái gì đó vô hình pha trộn; mọi thứ mù mờ, biến dạng, hương vị nhạt nhẽo. Những ngày rong chơi sau cùng, ngày càng vô vị. Chưa hết tuần, chúng tôi bảo nhau: sáng mai này đi trình diện cho xong.
Tôi lấy gói thuốc hút ra xem. Khác với gói Bastos bao màu xanh và màu đỏ bán cho dân chúng. Bao thuốc này màu trắng, có chữ J. BASTOS trên băng ngang màu xanh gần bên dưới. Hình người lính xung phong với lá quốc kỳ vàng sọc đỏ, thật sáng đẹp trên nền trắng của bao thuốc lá. Bastos “xanh” Quân Tiếp Vụ đấy!
Hãng thuốc lá MIC có tiếng và đã có mặt hơn trăm năm ở miền Nam Việt Nam; nằm trên đường Nguyễn Hoàng, trong khu Chợ Lớn. MIC nhắm vào giới trẻ, trung lưu, và gồm các hiệu như: Cotab, Ruby, Capstan. Vài năm sau, Sài Gòn có thêm hãng Bastos, Juan Bastos. Hãng này nằm trên đường Bến Vân Đồn, Quận Tư. Quân Tư “Khánh Hội”, nơi có đường Tôn Đản trong truyện của Duyên Anh; những truyện mà một thời tuổi trẻ đam mê, đầy ngưỡng mộ với Đại Cathay “Điệu ru nước mắt”, “Sa mạc tuổi trẻ”, “Vết thù trên lưng ngựa hoang”…. Bastos nhắm vào giới bình dân, với loại thuốc lá sợi đen, khói nặng, gắt, không thơm bằng Ruby Quân Tiếp Vụ, nên giá rẻ hơn. Quân Tiếp Vụ là cơ quan cung cấp hàng hóa, các nhu yếu phẩm như thuốc lá, bia, rượu, sữa, đường… cho quân nhân miền Nam mình với giá thấp hơn giá thị trường.
Bastos so với Pall Mall, thì rõ ràng là khác nhau một trời một vực, từ giá tiền đến hương vị. Tôi thích hàng chữ trắng Pall Mall thanh lịch kiêu sa, trên bao thuốc màu rượu chát đỏ sậm quý phái. Pall Mall dài hơn các loại thuốc hút khác đến một đầu lọc. Nhưng Pall Mall “đỏ” không có đầu lọc. Đoạn thuốc dài thêm này, có tác dụng độc đáo như là đầu lọc, làm bớt hơi khói nóng gắt từ đầu lửa, nhưng tăng thêm hương vị đậm đà. Kéo nhẹ điếu thuốc ra khỏi bao, hương thơm nồng nàn, hình dáng thon dài, quyến rũ, mê hoặc.
Ngó tôi ngắm nghía gói thuốc hút trên tay. Phát cười cười, thân mật:
- Tao mua đó!... Hồi nãy, tao đùa cho có chuyện nói…. Không có em nào tặng đâu. Tụi mày biết tao mà, không tán tỉnh ai hết… Tập làm quen với Bastos Quân Tiếp Vụ là vừa!
Chúng tôi tin Phát. Không đứa nào muốn vướng víu thêm tình cảm. Phát nói đúng: “tập làm quen với Bastos Quân Tiếp Vụ là vừa.” Tối nay, gói thuốc hút màu trắng có hình người lính và lá quốc kỳ, thật gần gũi, không còn xa lạ.
Quân vụ Thị trấn cũng nằm trên đường Lê Văn Duyệt, không xa nơi ở trọ mấy hôm nay. Thủ tục giấy tờ trình diện nhanh, dễ dàng. Từ đây, xe GMC chở bốn đứa tôi cùng các chàng tuổi trẻ tới Trung tâm 3 Tuyển mộ Nhập ngũ. Và rồi, từ con đường Quang Trung nắng đổ, tuổi trẻ chúng tôi được đưa vào quân trường; nơi có đàn anh chào đón và tận tình hướng dẫn, để vượt qua những tuần đầu tò te, ngố ngáo. Hai thằng Phát và Vẹn vào khác Trung đội, nhưng cùng chung Đại đội 32 với tôi. Trong đây, đỏ, hồng, vàng, xanh hay tím, không phải là màu áo tiểu thơ, để mấy chàng tuổi trẻ đứng ngẩn trông vời. Màu áo thiên thanh Thánh Linh giờ là màu trời ngày không gợn mây, nắng nóng bỏng sỏi đá Vũ Đình Trường,… Bây giờ, không còn là thời để thả hồn về áo trắng học trò hay mộng mơ màu hồng của áo dài trường Thiên Phước. Qua rồi cái tuổi mới lớn, đụng đâu yêu đó; thấy áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc, ngắm áo nàng xanh tự dưng mến lá sân trường, hay tần mẩn pha mực cho vừa màu áo tím. Nó là các màu khăn danh dự của đàn anh và của đàn em. Để nhớ mà kịp chào kính, từ khi đàn anh còn xa đến sáu bước, và chỉ được đem tay xuống khi đi qua đàn anh trọn ba bước. Khởi đầu, nó là màu của hãi hùng, suốt cả ngày và trong đêm; khi còn tập tễnh làm Tân khóa sinh. Nó trở thành màu thương kính, biết ơn; khi đàn anh đứng kề bên, mang cho đàn em cặp alpha trên đôi vai áo; trong Lễ Gắn Alpha.
Thao trường đổ mồ hôi, nắng bãi tập nung cháy màu học trò, hung đúc tuổi trẻ. Tuổi trẻ đã nhanh chóng trưởng thành, thành người lính đứng thẳng nhận lãnh Trách Nhiệm. Để rồi, người lính biết tủi nhục trong ngục tù và đã biết xót đau tận cùng khi mất cả quê hương.  
Anh đi!
Xưa nay chinh chiến, mình chọn ngày đi, mấy ai chọn được lúc về.
Đàn anh ra đi.
Đàn em không quên lời xưa đã ước thề.

… nhớ ngày 19-6
Bùi Đức Tính




Bấm vào hàng chữ dưới đây







Mời nghe câu chuyện do chính tác giả kể lại


No comments:

Post a Comment