Thursday, April 30, 2020

Chuyện Mất Chuyện Còn




Chiếc GMC, loại quân đội dùng chở quân lính, dừng lại. Tấm bạt che kín người bên trong xe, mở lên từ phía sau. Ánh mặt trời buổi chiều bất chợt hắt vào những tù nhân bên trong xe, làm bàn tay đưa lên che vội bên trên khuôn mặt hốc hác nhễ nhại mồ hôi, đôi mắt hấp háy tránh né tia sáng chói chang và đột ngột. Hai bộ đội trẻ, rất trẻ, đứng canh chừng bên lối xuống xe, tay ghìm cây AK với lưỡi lê dài nhọn đe dọa.
- Cho xuống xe!
Cán bộ “quản giáo” rời buồng lái, tay đeo vòng cái túi vải qua bên trái, cho khỏi che vướng cây súng ngắn K54 đeo lủng lẳng bên hong, ra lệnh. Những người tù lếch thếch nhích dần ra phía sau và mỏi mệt lần lượt xuống xe. Chân rảo bước về phía sau xe, có vẻ chưa vừa lòng, hắn cáu kỉnh hét:
- Khẩn trương lên!
Bất chợt có tiếng người kêu lên. Hai cái lon sữa Guigoz cột đeo trên vai anh, rớt xuống, lăn lóc nghe loảng xoảng. Mớ nước uống còn sót trong lon đổ tuôn ra, nhuộm ướt lớp sỏi đất trên sân trại thành màu đỏ sẫm. Tiếng kêu thảng thốt, khe khẻ, nhưng đủ làm những người quanh anh cùng cảm nhận. Các bạn tù còn trên sân khựng lại, nhìn xem. Bàn tay của anh cầm chặt nơi cổ tay của mình. Mắt anh kinh ngạc nhìn ngón tay của mình. Lúc xuống xe, chiếc nhẫn trên ngón tay, không may, máng vào đầu cây đinh ốc bị tuôn và nhô ra bên ngoài thanh gỗ dựa lưng của băng ghế. Sức nặng của thân thể và tốc độ nhảy xuống làm vòng kim loại cắt và tuột trọn da thịt trên ngón tay của anh quá nhanh, trong chớp nhoáng. Cảm giác thật sự chưa kịp đến. Cái đau lúc này ít hơn nỗi kinh hoàng khi mắt mình nhìn thấy các lóng xương ngón đeo nhẫn phơi bày ra trần trụi.
Dùng lưỡi lê trên đầu cây AK ghim chọc vào giữa vòng kim loại đang nằm trong nhúm thịt và máu. Đưa chiếc nhẫn máng trên thân lưỡi lê lên xem:
- Báo cáo cán bộ: chiếc nhẫn này của “ngụy”!
Thực vậy, không cần phải đọc cho được hàng chữ ghi tên quân trường quanh viên ngọc trên mặt nhẫn; hình ảnh con rồng uốn quanh cây kiếm và bản đồ Việt Nam, quá đủ để quân cộng sản nhận ra: đây là dấu hiệu liên hệ với Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Bây giờ, máu tuôn trào. Cảm giác đau nơi ngón tay lúc này thật sự là đau buốt. Nhìn gương mặt im lặng chịu đựng, của nạn nhân, viên cán bộ cay cú:
- Cực kỳ ngoan cố! … Cách ly nó!
Quay sang những người tù còn đứng gần đó, dợm chân, có ý muốn bước đến giúp đồng đội của mình, hắn gằn giọng:
- Cấm mọi quan hệ! Cấm cứu thương!... Không băng bó chi cả!
Anh bị giam riêng. Rừng về đêm giá lạnh, ngón tay không thuốc men hay băng bó càng thêm đau đớn. Cái đau đớn tận cùng không chỉ ở vết thương!
Đến trưa hôm sau, người ta đem anh ra xe và chở đi…
Không ai rõ anh còn sống, hay đã bị chuyển đến trại giam nào để trừng trị. Chắc chắn một điều, anh đã bị kẻ thắng trận có cơ hội chặt mất ngón tay của anh.
Vết thương, nổi đau, cái chết của người tù “cải tạo”, chẳng nghĩa lý gì trong khối óc của những kẻ đã thấm nhuần lời dạy dỗ của “bác và đảng”.
Sau khi quân cộng sản chiếm trọn miền Nam tự do. Những người lính miền Nam Việt Nam, những công chức, nhà văn, nhà báo và tất cả những thường dân bị nhà cầm quyền cộng sản kết tội có liên hệ với chế độ Tự do của miền Nam, đều bị tống giam vào các trại tù, dưới tên gọi là “trại cải tạo”. Ngay cả thương binh cũng không thoát khỏi chính sách trả thù hèn hạ, hiểm độc. Họ bị tống đuổi ra khỏi bệnh viện, bất kể tình trạng thương tích trên người, với vải băng bê bết máu kéo lê trên mặt đất dơ bẩn.

Bây giờ, đã sắp hết tháng Tư.
Ngày 30 tháng Tư rồi cũng đến!
Tháng ngày nhắc nhớ niềm đau, nỗi đau tột cùng khi mất cả quê hương. Tháng Tư năm nay khác hẳn với các tháng Tư đã qua. Thế giới tang thương vì cơn đại dịch do loài vi trùng lạ tràn lan. Cho dù những con vi trùng lạ, xuất phát từ thành phố Vũ Hán của nước Tàu, có do loài người nào đó mưu đồ hay không, nó cũng đã hủy diệt được sinh mạng và tổn hại đời sống bình an của nhân loại. Đến nay, đã có hơn ba triệu người bị lây nhiễm bệnh và hơn hai trăm ngàn người đã tử vong.
Thật vậy. Hơn hai trăm ngàn bệnh nhân đã từ trần!
Cũng từ 30 tháng Tư năm 1975, theo Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc, đã có từ hai trăm ngàn đến bốn trăm ngàn thuyền nhân đã chết vì phải vượt biển tìm tự do.
Thật kinh hoàng!
Nhiều hơn số tử vong vì đại dịch trong mùa xuân năm nay!
Cảnh cách ly hiện nay, không thể nào so sánh được với thảm cảnh cách ly trong các trại tỵ nạn, các trại tù “cải tạo” của cộng sản.
Trong bài viết “TRẠI CẢI TẠO – ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN Ở VN”, Bác sĩ Nguyễn Ý Đức có ghi lại về “Bệnh xá – Bệnh tật”.
”Mặt đứa nào đứa nấy trông như những quả dưa bở chín rục, chân tay bụ bẫm cứ như những cái xác chết trôi ba ngày, đang xếp hàng dài trước bếp xin chút nước vo gạo về uống với hy vọng mong manh tí chất cám có thể cứu nổi căn bệnh phù thũng trầm kha.” (Đại Học Máu Hà Thúc Sinh tr 251).
”Nói là bệnh xá cho xôm trò chứ nơi đây chỉ là một nhà thường có sạp nằm cho bệnh nhân. Lúc tôi đến đây thì đã có hai mươi trại viên đang trị bệnh tại đây. Người tôi bị tê liệt toàn thân do đó những việc vệ sinh cá nhân tôi không làm được, tôi phải nhờ sự giúp đỡ của hai bệnh nhân nằm hai bên tôi. Hai bệnh nhân này không cùng một trại với tôi.
Một hôm cán bộ bác sĩ đến tận giường tôi đọc lệnh mà nội dung như sau:- Anh Phan Phát Huồn, anh là một tên có nợ máu với nhân dân nhưng đảng và nhà nước ta đã tha tội chết cho anh, anh đau ốm vẫn cho anh nằm ở bệnh xá điều trị, vậy mà anh không biết điều, vi phạm nội quy của bệnh xá bằng cách quan hệ với người khác trại, vậy ngay từ giờ phút này anh phải ra khỏi bệnh xá. Nói xong ông ta ra lệnh cho y công buộc dây thừng vào hai chân tôi và kéo tôi như một con chó ra khỏi bệnh xá”.(AK và Thập Giá- LM. Phan Phát Huồn).
“Tại bệnh viện tôi đã nghe nói và chứng kiến những cuộc “căng mùng” ghê rợn. Căng mùng tức là nói đến giải phẫu bệnh nhân. Để tránh ruồi muỗi bu vào lúc giải phẫu, bệnh nhân được đưa vào trong mùng. Vì không có thuốc tê nên người ta cột bệnh nhân vào giường, lại còn có các anh hộ lý đè bệnh nhân xuống để bệnh nhân khỏi vùng vẫy lúc quá đau đớn. Thường thường bác sĩ dùng dao cạo râu để giải phẫu. Bệnh nhân gào thét kêu la thảm thiết, tôi có cảm tưởng là một con lợn đang bị thọc huyết” (AK và Thập Giá-LM Phan Phát Huồn).
…”

Cái chết trong cơn đại dịch hiện nay đã làm xúc động lòng người. Nhưng không thể nào so sánh với cái chết của thuyền nhân Việt Nam. Họ đã không được chết như bệnh nhân trong chăm sóc đầy tình người, nơi các quốc gia văn minh. Họ bị vùi thân xác nơi hoang đảo, trong lòng biển sâu. Họ chết trong kinh hoàng, uất hận; vì người giết người, vì súng đạn của những kẻ mệnh danh là “quân đội nhân dân”, như bản tin từ báo New York Times đã kể lại một câu chuyện thật, thật man rợ:
“Các nguồn tin chính thức của Philippines hôm nay cho biết rằng quân đội cộng sản Việt Nam đã giết 85 người tỵ nạn người Việt, trong đó có 45 trẻ em, khi thuyền đánh cá của họ mắc cạn ... trên một hòn đảo ở Biển Đông. ... 8 người may mắn sống sót sau vụ thảm sát ngày 22 tháng Sáu này và cuối cùng trôi dạt đến được đất liền và ẩn náu ở Philippines ... Tài liệu đáng tin cậy đã cho biết quân đội cộng sản Việt Nam đã nổ súng vào chiếc ghe của người tỵ nạn bằng súng cối, súng máy và các thứ vũ khí tự động."
Một thời đã từng tôn sùng cộng sản, Dương Thu Hương, tác giả của “Thiên Đường Mù” có lần đã nói về cái chiến thắng vào ngày 30 tháng Tư:
“Chế độ man rợ lại thắng chế độ văn minh”.

45 năm qua!
Đã có hàng trăm hồi ký, truyện ngắn, truyện dài viết về trại tù “cải tạo” của cộng sản. Biết bao câu chuyện thương tâm đã được ghi lại trong Thân Phận Người Lính Gãy Súng, Xử Tử Tù Cải Tạo, Nữ tù nhân "cải tạo" ở Z30D, Những Người Tù Cuối Cùng, Núi Lạnh, Cuối Tầng Địa Ngục, Trại Tập Trung, Trại Kiên Giam,… và hãy còn biết bao câu chuyện không thể nào được kể lại trọn vẹn, hay chưa bao giờ được biết đến; vì người tù đã vùi thân xác đâu đó trong rừng hoang khi vượt trốn trại, hay trong các bãi chôn tù, như nghĩa trang Đồi Bà Then trên Cổng Trời. Hoàn cảnh khắc nghiệt tại trại giam Cổng Trời khiến tù nhân chết do bệnh tật, thiếu ăn, biệt giam hay lạnh giá hầu như xảy ra hàng ngày. Đồi Bà Then là cái tên mà người nào ở Cổng Trời cũng đều biết. Nó là một mảnh đất nhỏ được dành làm nghĩa trang mà cán bộ trại giam luôn lấy làm biểu tượng để cảnh cáo những người tù cứng đầu nhất. Biết rằng: không ai thoát khỏi cái chết trong cõi đời này, nhưng người tù “cải tạo” phải chứng kiến và chấp nhận cái chết đến với mình. Chỉ riêng trại giam có tên là Trại Cổng Trời đã có quá nhiều hồi ký ghi nhắc đến.

Hàng năm, cứ đến ngày 30 tháng 4, đảng cộng sản lại thản nhiên tưng bừng kỷ niệm Đại thắng mùa Xuân. Năm nay cũng thế, tờ báo đảng “Sài Gòn giải phóng”, ngày 28 tháng 4 vừa qua, có loan tin về cuộc thi sáng tác tranh cổ động để ăn mừng “45 năm ngày Đại thắng mùa Xuân”:
“Cuộc thi được phát động vào tháng 11-2019, … Cuộc thi đã thu hút được nhiều tác phẩm gửi về tham dự. Giải nhất được trao cho tác phẩm "30 năm mới được gặp nhau trong ngày vui đại thắng"- tác giả Đỗ Như Điềm, Thái Bình.”

Thế đấy!
Hy vọng không thể vươn lên; không thể đặt niềm tin nơi chế độ cộng sản.
45 năm qua, cộng sản vẫn là cộng sản.
Kẻ phạm tội vẫn chối bỏ tội phạm, tất nhiên tái phạm.
"Those who cannot remember the past are condemned to repeat it"
(George Santayana)

Chuyện mất!
Chuyện còn!
Chuyện Việt Nam, còn đó nỗi đau tột cùng khi mất cả quê hương!

Tháng 4, 2020
Bùi Đức Tính

Monday, April 27, 2020

Hồi Ức



T  H  E  O       G  Ó  T     C  H    N      K  H       S  A  I 

Hồi nhỏ chưa biết đọc biết viết tôi đã biết xài tiền  tuy chỉ mới hơn ba tuổi bởi ba má tôi có sập vải trong nhà lồng chợ Trường Bình. Sáng sáng, ông bà thường hay dẫn tôi theo khi ra mở  sạp bán hàng. Tôi còn nhớ trong khi má tôi đo cắt vải cho những người mua từ những làng xã xa xôi  lâu lâu đi chợ  ghé  vào một lần. Khi chợ đông người đểcuốn hút  thêm khách mua, thỉnh thoảng ba tôi lại rao:  
- Vải Huê Kỳ đây, năm bảy người chì không đứt đây  …  
Nghe vậy nên mọi người tò mò xúm lại , đã  vậy  ba tôi còn giới thiệu:  
-Mua bông gòn nguyên chất lấy từ trái gòn  đi, mua về dồn gối  nằm sạch và êm hơn lông vịt. Riêng tôi cứ  lẩn quẩn quanh má trên sạp bề ngang chỉ hơn hai thước vuông chung quanh chất đầy những cây vải nhiều màu sắc. Chắc là tôi làm vướng tay nên bà đưa cho tôi tờ giấy bạc một đồng  xua tôi đi mua quà .
   Ở quê xa quà bánh con nít miền Nam không có nhiều, ngoài mấy khúc mía  róc vỏ trắng phau,  củ khoai lang, khoai mì, miếng kẹo đậu phọng, vắt cốm nếp, kẹo gừng, quanh quẩn chỉ  xâu bánh vòng là món quà rẻ tiền đứa trẻ con nhà quê nào cũng biết. Chỉ  một sợi dây lạt dài buộc lại trong xỏ xâu những cái vòng làm bằng bột gạo nhuộm màu se tròn được chiên giòn rụm. Đây là món quà người đi chợ nào cũng mua về cho bầy con nít ở nhà vì chúng rất thích bởi có thể mang lủng lẵng trên cổ giống như sợi dây chuyền, có thể nhâm nhi từ từ bằng cách kéo lên miệng cắn một trong những cái vòng nhai rau ráu .
    Không thèm ăn những món tầm thường của con nít như trước, lần này  bắt chước  người lớn tôi  vòng ra phía sau gian hàng mua năm cắc ốc gạo luộc, năm cắc là đơn vị tiền tệ có giá trị cuối cùng . Nó gồm hai cái hai mươi xu và mười xu đúc bằng kẽm cộng lại. Nhưng tiền xu không có nhiều  để  trao đổi  nên  người ta có sáng kiến xé đôi tờ một đồng  cho gọn. Sau  khi bà bán hàng xé tờ bạc thối lại. bà đưa cho tôi một dĩa ốc bằng bàn tay trên có chén nước mắm nhỏ như chũm cau. Ngồi chồm hổm  trước cái gánh ốc tôi tỉ mẩn khêu miệng lể từng con ốc bằng chiếc gai bưởi nhọn hoắt. Dần dần  vãn khách, má nhìn quanh quất tìm con, ngoái lại sau lưng thấy tôi đang ngồi  với dĩa ốc, bà cười gọi  ba tôi chỉ cho ông trông thấy và nói: "con nhỏ đang ngồi lê la ăn hàng giống người lớn chưa!".
    Ký ức đọng lại khiến tôi nhớ nhất thời ấylà một đồng xé làm hai mà   vẫn có giá trị tương đương  phân nửa. Sau này bắt đầu vào trung học   lần đứng  ăn quà  với  nhỏ bạn  cạnh chiếc xe bán đậu đỏ bánh lọt trước cửa chùa Xá Lợi nghe chị bán hàng than dạo này hiếm tiền lẻ để thối lại, tôi nói với nó:
-Ngày xưa người ta không có tiền lẻ nên hay xé giấy bạc một đồng ra làm hai để thối lại .
Con nhỏ trố mắt không tin :
-Hồi đó đến giờ tui chưa nghe chuyện một đồng xé làm hai vẫn còn xài được .
Tôi cố biện bạch :
-Chuyện thật đó, chính tui  là người có xài như vậy mà, hồi tui còn nhỏ xíu .
Nhỏ bạn vẫn không chịu cho rằng tôi bịa chuyện , nó chốt lại một câu :
-Tui  bằng tuổi với bà  nhưng chưa bao giờ nghe ai nói chuyện này kể cả ba má tui  , với lại còn nhỏ  làm gì có tiền mà xài, bà nói “ dóc “  quá bà ơi ! 
Không lẽ cứ đôi co, tôi  ngẩn ngơ thầm nghĩ trong bụng: “Chuyện này mình nói thật mà!   do đó tôi  đã không buồn để ý đến lời nói nặng nề làm chạm tự ái đối với tôi lúc ấy  .
Nhiều năm sau có lần tình cờ đọc một bài viết trong quyển truyện của nhà văn Sơn Nam  hình như  miêu tả  về  tập quán phong tục  văn  minh miệt vườn  của miền Nam  . Trong một bài viết  ông có  đề cập  chuyện đồng bạc xé làm hai .  Đọc xong  tôi  bỗng cãm động  bồi hồi  giống như gặp được người tri kỷ , đồng điệu ,  bởi  trang sách ông viết là   bằng chứng xác minh  , là  câu  kể  của  một nhà văn lão thành có tên tuổi ,  là lời   biện bạch  cho thấy  tôi  đã  không nói láo  như nhỏ bạn đã nói  . Nhưng giờ hai đứa chúng tôi học  hai ban khác nhau  mà chắc gì nhỏ  còn nhớ lời nói của nó năm xưa ! 
      Trong  đời người , từ lúc bắt đầu biết nhận thức  có nhiều việc xảy ra  không ai có thể nhớ hết , nhưng có những thứ là dấu ấn ghi đậm trong ký ức  không thể nào quên . Tờ giấy bạc xé làm hai với tôi  là dấu ấn đó bởi thế sau này khi đã biết đọc biết viết tôi  hay  cầm tờ giấy bạc đọc hết những gì đã in trên đó , tờ bạc nào cũng có câu: Hình luật phạt khổ sai  những kẻ nào giả mạo giấy bạc do ngân hàng Quốc gia Việt Nam phát ra.  kèm theo  chữ ký của  hai người   Thống đốc  Tổng kiểm soát . Nhiều lần đọc đi đọc lại tôi vẫn không hiểu  hết hai chữ “Khổ  sai  .  Hai từ này phải có gì ghê gớm lắm  nên được in ngụ ý nhấn mạnh  đây là một hình phạt  rất nặng nề, được  quảng bá rộng rãi bằng cách in trên tiền cho  lưu hành khắp nơi  nhằm mục đích răn đe  .
  Đi sâu vào ngôn ngữ  và tìm  hiểu cặn kẻ qua các quyển từ điển tôi mới biết: "Nghĩa đen của Khổ là khổ cực, đau đớn, là cam chịu không thoát ra được.  Sai là bị một quyền lực bắt buộc làm theo ý người khác không thể phản kháng lại. Khổ Sai là bị người khác dùng quyền hành hay sức mạnh  sai bảo  làm những công việc  khổ cực  nặng  nhọc  không do ý muốn.  Là hình phạt bị cách ly ra khỏi  xã hội, sống ở nơi xa xôi hẻo lánh, bắt buộc họ làm những việc nặng  nề  vất vả  hoặc nguy hiễm  quá sức lực, không có chế độ tối thiểu hổ trợ cho sinh tồn và hạn định thời gian làm việc .Nếu trót rơi vào hoàn cảnh bị khổ sai  không ai muốn, con người sẽ sống không bằng chết .


oOo

   Chiếc xe hơi  được cải tiến chạy bằng than chứa  chưa được  mười lăm  người , sau khi rời thị trấn Long Hoa thuộc tỉnh Tây Ninh rẽ vào một con đường  đất  in dấu các hố bom chi chít  . Con đường này dẫn vào mật khu Dương Minh Châu nổi tiếng là trận chiến ác liệt bởi nó cũng là con đường chính dẫn qua các đồn điền  cao su  bên kia đất Cam bốt , nơi  hậu cứ trú ẩn an toàn  để  bắt đầu xuất phát  và rút lui  của đám  du kích Cộng sản  sau những  trận tấn công  quấy phá  các đơn vị  của quân đội  Việt Nam Cộng Hòa  đóng  dọc theo biên giới tỉnh lỵ .
Trải  qua các hầm hố nông sâu bởi những trận bom  pháo  của hai bên cày nát  con đường , nếm trải những cơn dằn xóc , lúc lắc , vùi dập ẹo xương sườn , xương sống ,  hành khách ngồi trong xe ai cũng vui mừng khi nghe anh lơ xe hô to :
---   Tới  Xa mát  rồi nghe bà con .
Mọi người nhao nhao :
---   Tôi đi Bổ Túc mà ?
----   Đến đây rồi nghe nói còn phải tiếp tục đi Bổ Túc nữa  !
Một hành khách phát biểu có vẻ thành thạo .  Ai cũng lo gom đồ đạc vừa bỏ trên mui xe xuống rồi vây quanh hai ông tài xế và lơ xe  nghe họ chỉ dẫn :
----   Từ đây  muốn vô  Bổ Túc  bà con phải đi  khoảng hơn bảy , tám cây số  nữa , tới đây là hết đường xe  của tụi  tui rồi .
Nhìn  hành lý  bao bị  ngổn ngang  ai cũng  lắc đầu  ngao ngán  không biết làm cách nào  mang vác để tiếp tục hành trình . Anh lơ xe tiếp lời :
----    Muốn vô  mọi người phải thuê xe máy cày đi tiếp .  Ở đây chỉ có hai chiếc , chiếc kia đi rồi  còn lại chiếc cuối cùng thôi .
Nói là xe chứ thật ra chỉ là chiếc máy cày  có hai bánh xe và  người cày đi sau cái máy có tay cầm  thay cho con trâu  cày ruộng . Để có thể chở đồ đạc người ta làm thêm cái rờ mọc  giống  thùng  xe ba gác nối vào  và ngồi trên nó .  Với đống bao bị  chất  đầy   không còn  chỗ  cho gần chục người, nên tất cả đều phải đi bộ , ai cũng  vui mừng vì đã giải quyết được  mớ  hành lý cần mang theo.  Con đường là một con dốc thấp cũng gồ ghề  lỡm chỡm, hang lổ  ngổn ngang  nên  người và  xe  phải ì ạch leo trèo.  Vừa đi tôi vừa  ngẫm nghĩ câu hát cho  quên đi mệt nhọc   :
                   Đi đâu cho thiếp theo chàng , đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam  .
              ….   Chàng hỡi chàng có hay , đêm thiếp nằm luống những sầu tư .
                    Ngày mỏi mòn như đá vọng phu ..!!

Cuối cùng tất cả  đều đến nơi cùng  một lúc.

   Hơn ba năm kể từ  tháng 4/75 đây là  lần đầu tiên  mọi người   giấy phép cho thăm nuôi  thân nhân  tập trung cải tạo , được gặp mặt hai  tiếng đồng hồ phù du.  Tuy chỉ có hai  giờ  nhưng  cũng đủ cho  cả hai bên  diễn  xong vở  kịch làm vui lòng nhau . Không ai dám nói thật về  tình trạng hiện tại của mình. "Người ngoài cười nụ , người trong khóc thầm" tâm trạng của Kiều và Thúc Sinh trước mặt Hoạn Thư   giống hệt như bây giờ của chúng tôi  trước mặt cán bộ quản giáo trại cải tạo.  Chồng nhìn  vóc dáng gầy xác xơ , xanh xao của vợ. Vợ nhìn thân hình tiều tụy, đen  đúa   rách rưới thiếu thốn, cùng  bàn tay chai sạn của chồng  cũng đủ hiểu.  Ở một nơi xa xôi hẻo lánh  rừng thiêng nước độc, bị sai khiến làm những việc nặng nhọc ngoài ý muốn, thiếu thốn thực phẫm , thuốc men, quần áo. Nơi  đây  những  người  lính anh  dũng  của miền Nam bỗng  dưng trở thành  tù nhân khổ sai  bấc đắc dĩ  bởi   không hề phạm tội  lỗi.  Mọi người chỉ nghe trên cửa miệng của các cán bộ Cộng sản lúc nào cũng ra rả  đanh thép kết án  họ  có nợ máu, có tội với nhân “ rân “ (dân)  mà thôi .
Thời hạn mười ngày, một tháng, ba năm trôi tuột trên cổ họng trơn tru không giới hạn của người Cộng sản. Chúng tôi biết bắt đầu từ đây  mình sẽ phải đi theo gót chân của  người thân trong gia đình,  dẫu có phải  đi cùng trời cuối đất , đã vậy còn chờ đợi vài tháng, nửa năm một lần nhận tờ giấy cho phép thăm nuôi gặp mặt. Gom lại vơ vét tất cả tiền bạc,  bán dần  nữ trang , đồ đạc các thứ làm lộ phí  đi đường  cho dù   niềm vui có  tỷ lệ thuận với nỗi buồn .  
Tôi may mắn vì chồng  còn trẻ, thời  gian  phục vụ  quân ngũ chưa dài nên còn loanh quanh  trong các trại ở miền Nam. Bởi  nhìn thấy bất cứ  nơi  đâu cũng đầy dẫy các trại cải tạo  trực thuộc  Huyện ,  Tỉnh , Thành phố , Trung ương  quản lý.  Nói không ngoa, sau  năm bảy mươi lăm  đi ra đường là đụng đầu với  người  người , nhà nhà  có thân nhân  đi tập trung cải tạo.  Ai cũng nhìn nhau bằng  những đôi mắt thương cãm lẫn nhau ngoại trừ người miền Bắc. Trải dài Cà Mau  lên Chương Thiện , Mộc Hóa, Tây Ninh,  Hốc Môn , Xuyên Mộc, Xuân Phước, Bố Lá, Gia Trung, Phước Long, Bà Rá , Bù da Mập, Bù gia Phúc, Minh Trung v..v…Đó là những cái tên tôi biết, đường xá  đi lại dẫu khó khăn nhưng vẫn còn gần hơn những trại tiếp theo chạy dài các tỉnh miền Trung  cho đến  tận cùng  miền Bắc  đèo heo hút gió  miễn  nơi đó phải là rừng thiêng, nước độc. Những  Cổng trời,  Nghĩa Lộ, Lào Cai, Hoàng Liên Sơn, Vĩnh Phúc và nhiều nơi  không kể xiết  !
   Ba tháng sau bảy lăm bước chân đầu tiên tôi đi tìm chồng khi chờ đợi quá mười ngày vẫn không tin tức, tôi mắc chứng trầm cãm sau sinh lúc đó mà không biết bởi tối tối sau khi con ngũ  tôi đi lang thang ngoài đường trong vô vọng, tôi gào trong cổ họng:

 Anh ở đâu ? Sao không về với mẹ con em !

     Cho đến khi tôi lọt vào quãng đường  lao xao nhiều người  vẫn không biết đang ở đâu bởi tâm trí còn đang lửng lơ, u mê . Bỗng một người đàn ông lẽo đẽo đi theo hỏi: "Đi không em?  Đi không ?. "
Bàng hoàng nhìn chung quanh mới thấy đây là một chợ người, sực tỉnh tôi nạt lớn: É  mày, đừng có tầm bậy …. "  và tôi bỏ chạy thục mạng về đến nhà, dọc đường tôi nghe văng vẳng bên tai tiếng con khóc đòi mẹ . Về đến, may thay con tôi vẫn còn đang ngũ say .
     Sau đêm đó tôi hoàn hồn lại nhưng vẫn không từ bỏ ý định tìm chồng  lần này quyết định  đi ban ngày. Tôi nghe đồn họ tập trung những sỉ quan tại căn cứ Trảng lớn, Tây Ninh. Thế là tôi nhờ mấy đứa em trông giùm con tôi lên xe đò đi Tây Ninh mặc dù chưa bao giờ đi xa một mình như vậy. Đến bến xe tôi hỏi đường  thuê một chiếc xe  lôi đạp đi Trảng lớn và xe  bỏ tôi xuống trước con đường nhựa thẳng vào bên trong xa xa có một cổng gác, tôi trông từa tựa như cái cổng căn cứ của  Sư đoàn 25 bộ binh  tôi và bà chị đi thăm ông anh họ và đứa em trai nhân dịp Tết  thời tôi còn đi học .
      Đi quanh quẩn không biết  làm cách nào  lọt vào bên trong.  Cùng lúc tôi vừa  mới  lò dò cất bước  lại  xuất hiện một  bầy “ phụ nữ trạc tuổi tôi từ  ngoài đường đi vào, họ mặc áo  bà ba  quần đen , chân đi  dép nhựa, tóc kẹp sau lưng bằng chiếc kẹp ba lá  kiểu cũ  rích  của  thiếu nữ miền quê.  Thoạt nhìn  tôi  cũng na ná giống họ  trong  trang  phục  chỉ khác mái tóc cột lại  bằng sợi thun  nhựa   . Cả đám dừng lại trước  cái nhà có tên gác cổng mặc đồ bộ đội, có lẽ ngồi một mình buồn nên  hắn  thấy đám con gái là “thả thính“ thế là hai bên  trêu ghẹo nhau, lợi dụng cả đám vừa đi vừa cười   đùa  tôi lẳng lặng theo sau đi một lúc cả đám con gái rẽ mất dạng. Tôi cũng không hiểu lúc ấy  tại sao họ  không hề ngoái lại sau lưng phát giác ra tôi chẳng phải là đồng bọn    .
      Vượt qua cổng, đi tới lui những con đường nhỏ giao nhau vẫn không thấy bóng dáng hay tiếng  của người ta chỉ có tiếng gió thổi xào xạc qua đám cỏ tranh chung quanh, sợ lạc đường tôi quay lui   về con đường chính khi trời ngã về chiều và vội vàng trở ra chiếc cổng ban nảy mới vào, lại một lần nửa  tôi gặp may mắn không bị hạch hỏi bởi vọng gác không còn bóng tên lính ban nảy hình như  hắn  đi đâu ra phía sau bức vách  khuất bóng nên tôi  nhanh chóng thoát ra cổng một cách dễ dàng .  
    Lần cuối cùng tôi mất nửa ngày trời chờ đợi khi nghe tin đồn có một số sỉ quan cải tạo được thả về tại căn cứ Sóng Thần, thuộc Rừng cấm, Thủ đức. Nơi này tôi quá rành rẽ bởi mấy lần lái Honda chở  nhỏ bạn đi thăm người yêu   là lính Thủy Quân Lục Chiến về  ăn tiệc khao quân  tại hậu cứ  sau trận Hạ Lào. Nơi này có Quân Y Viện Lê Hữu Sanh  đã  một lần tôi theo trường đi ủy lạo thương bệnh binh. Đến nơi tôi biết mình không cô độc như lần trước bởi cũng có khoảng chục người giống tôi đứng ngóng nhìn cái cổng đàng xa  chờ người. Ngồi lê la quá trưa mới thấy có ba người mang túi đi ra, chúng tôi xúm lại hỏi, họ vừa đi  thật xa khu vực mới vừa ra  vừa dè dặt trả lời  nhát gừng . Nội dung được thả về sớm là do không có nhiều “ nợ máu “ là kỷ sư, bác sỉ. Câu cuối cùng họ nói:
  ----    <<   Tụi tôi về  là phải “ đăng ký “  đi hồi hương , đi kinh tế mới chứ không được về nhà  >> .
 Tôi rất ghét và dị ứng  với  từ ngữ người Cộng sản dùng có vẻ bí hiểm, ra vẻ thông thái  phát huy tiếng  Việt mới, miệng nói không được mượn chữ Hán, vậy đơn giản chữ ghi danh, ghi tên lại kêu là đăng ký. Tôi không biết chữ nào mới tối nghĩa hơn  ??
       Sau cái Tết đầu tiên của thời kỳ Xuống Hố Cả Nước , bà chị tôi giúp cho em mình lòn lách khai man nộp lý lịch để đi làm  kiếm tiền mua sửa cho con,  mặc dù  một tháng lương hai chục đồng chỉ đủ mua hai hộp sữa bột  ngoại nhập còn sót lại ngoài thị trường  . Với tôi  yếu tố  chính là tôi thôi chuyện bỏ con cho  đám em trông chừng,  chạy rong tốn tiền xe đi tìm chồng theo tin đồn.  Vậy là tôi yên trí chờ đợi chồng tôi học tập ba năm theo chủ trương  nhà nước đối với  Sỉ quan  tập trung cải tạo đăng rõ  ràng  trên  hai  tờ báo độc nhất ở miền Nam là tờ  Saigon giải phóng và Tin sáng  của Ngô công Đức .
     Sống trong chế độ Cộng Sản ba năm mà tôi vẫn còn ngây thơ tin lời họ . Đếm từng ngày đúng ba năm  chiều chiều ra đầu ngõ ngóng chồng  , hơn ba năm kể từ ngày nhận tấm giấy báo đầu tiên cho phép mang quà đi thăm nuôi  gặp mặt  mới  hiểu  sau ba năm là thời gian kế tiếp của  những hành trình đi theo người thân  trong các trại tù .
Không cần kể lại những gian khổ của những người bên trong và bên ngoài  bởi tất cả đều đang ở trong một nhà tù  “ vĩ đại “  vô biên .  Dần dần tôi rút ra một bài học từ riêng tôi , trong chế độ Cộng sản  bất kỳ một vấn đề khó khăn nào  người ta  cũng có thể   giải quyết  bằng cách vận dụng  đồng tiền  để sai khiến ,  mặc dù trên miệng  những người  mang danh cán bộ lúc nào cũng  giáo huấn  ca tụng   đạo đức cách mạng  trong sạch  của người đi theo đảng . Nhưng rồi từ từ họ cũng thú nhận với chúng tôi trong những buổi tập trung học tập  chủ trương nghị quyết  của  cả nước tại xí nghiệp. Có rất nhiều đảng viên trung kiên tư tưởng biến chất bởi trúng những viên đạn bọc đường  tàn dư Mỹ Ngụy.
      Lần đầu tôi thử  nghiệm  chuyện này vào  cuối   năm thứ tư đi thăm nuôi , cũng là lần thứ ba được giấy gặp mặt chồng tại các trại thuộc tỉnh Phước Long. Du kích địa phương nêu lý do trên ra lệnh để kỷ niệm chiến thắng Phước Long vào ngày 5 và 6/1/75  cấm  vượt núi Bà Rá  chận con đường độc đạo vào các trại là chiếc cầu  Dak Lung .  Mọi người bị tập trung vào gian nhà trẻ không có vách để ngày mai chúng đuổi trở về mặc dù  đã phải vượt ba trăm cây số đường trường đến nơi. Tôi thấy đám du kích đi vòng vòng nói với người đi thăm nuôi  bằng khuôn mặt và nụ cười hả hê  :
   -Các  ông  bà có mọc cánh cũng không vào được bên trong.
Tôi  không cam tâm trở về  và nghĩ  : <<   Mọi  thứ đều có thể mua được bằng tiền    .
 Mười mấy năm sau  tôi  lại   tiếp tục nghe  câu nói từ những thế hệ trẽ sau tôi: "Những gì không  mua được bằng tiền,  người ta  sẽ mua bằng rất ,  rất   nhiều tiền".
     Rủ thêm ba chị đồng cảnh ngộ, chẳng những không bị bọn du kích tập trung đuổi về  , chúng tôi nghiễm nhiên vác đồ đạc vào ngũ trọ tại nhà một sỉ quan CS quân hàm trung úy. Chỉ với vài chục bạc hùn lại  chúng tôi mua đứt bà mẹ người này đang ngồi gọt vỏ đống khoai mì. ho người ngũ tạm một đêm  mẹ được hơn nửa tháng lương của mình, tôi thấy người con hơi băn khoăn nói giọng xuôi xị .
   -Các chị phải có đủ giấy tờ tùy thân  hợp lệ nhé .
Tôi nghĩ bụng, mẹ ông đã đồng ý thì làm gì con dám cãi. Đám du kích địa phương đâu  dám vào xét nhà sỉ quan quân đội chính quy.  Câu nói người xưa tôi đem áp dụng  hiện tại vẫn có giá trị tuyệt đối. “ Thiên thời  Địa lợi  Nhân hòa“. Đúng là trời giúp khi có một chiếc xe hơi đỗ xịch  trước sân.  Bà cụ chủ nhà cho biết  đây là chiếc xe chở  cán bộ cấp cao vào họp, người tài xế không chịu  vào  ngũ  trong trại nên mang  xe  ra ngoài thị trấn  chơi đêm. Khoảng thời gian này chỉ có cán bộ cao cấp mới có xe và tài  xế phục vụ  riêng. Chúng tôi lại áp dụng bài học ban chiều. Thiên thời là đây rồi, với số tiền gấp  chục  lần sinh hoạt phí được lĩnh hàng tháng, nửa đêm anh này gõ cửa kêu chúng tôi trở dậy mang tất cả đồ đạc lên xe  qua cầu, vượt núi vào trong. Vào đến trại cán bộ quản giáo trợn tròng kinh ngạc cho rằng chỉ có mọc cánh mới vượt qua thiên la địa võng với ngần này  đồ đạc . Họ có biết đâu với cách thức vác đồ di chuyển vần lân hai lần. Khi qua khỏi  cầu  một quãng  chiếc xe  bỏ chúng tôi với đống bao bị giỏ xách  lúc còn trời còn mờ tối. Từ đó tôi đi mãi đến giữa trưa và đến nơi lúc trời gần sẫm tối bởi đã ước lượng được thời gian. Lần thăm nuôi này anh được biệt phái đi cất chuồng heo nên đoạn đường gần hơn phân nữa tức là chỉ khoảng hơn mười lăm km. Vì  đợt trước tôi đã phải đi bộ  khởi hành từ sáng sớm với đoạn đường ba chục km, chỉ đến trưa là  đến bến xe kịp chuyến độc nhất về lại Saigon .
   Chuyện của tôi mới đầu chỉ là một cá nhân, nhưng cũng bắt đầu từ thời gian này người ta không dùng tiền nữa mà dùng vàng  và rất nhiều vàng  để đánh đổi mọi ước muốn  ra đi  tìm tự do trên khắp cả nước.  Thành trì đạo đức cách mạng Bác từng dạy cho bầy đệ tử giờ trôi theo biển cả.  Thế nhưng theo xu thế  thời đại mới  của thế kỷ hai mươi mốt  đô la Mỹ  đã  soán  ngôi vàng một cách ngoạn mục tại Việt Nam .
  
oOo

    Trải qua bao ngày tháng kinh khủng sống trong thiếu thốn, nghèo đói. "Lênh  đênh qua cửa “thần phù. Khéo tu thì nổi, vụng tu  thì chìm" .  Ngày đầu tiên thức giấc tôi cứ tưởng mình đang trong mơ  chưa tỉnh.  Biết bao người đã có tâm trạng giống tôi, gặp lại gia đình người anh họ bên Mỹ tôi nói với chị vợ.
----   Hồi ấy khi nghe anh ấy cưới vợ em nghĩ  ai dám lấy anh  đúng là can đảm, bởi vì một người suốt sáu bảy năm cải tạo trở về không tương lai,  không nghề nghiệp, trắng tay  còn bị địa phương kỳ thị, nay đuổi, mai xô.!  Vậy mà cô giáo dạy trung học như chị dám yêu và chịu đồng cam cộng khổ, thật đáng khâm phục. Bây giờ chị đã được đền bù.
Chị chỉ cười khanh khách vì hơn  cả chục năm sau  bảy lăm đâu có ai ngờ  gia đình những người bị phân biệt lý lịch “ngụy quân“, chồng cha bị cải tạo lại nhận được tấm vé đi Mỹ với chương trình gọi tắt là HO. Là đền bù cho những người phụ nữ có tấm lòng chung thủy với chồng, với người yêu. Là mở ra tương lai đối với những người con bị phân  biệt đối xử bởi lý lịch .
   Khi đã là công dân một nước tự do được bảo vệ bởi quan hệ ngoại giao cấp đại sứ, lãnh sự quán, ở một vị thế khác nhiều gia đình đã trở về không phải để “áo gấm về làng“ như một vài người. Trong vô vàn ngậm ngùi họ trở về tìm nấm mồ của thân nhân bị chết trong thời gian tù đày, bị vùi lấp nơi rừng hoang xa xôi, lạnh lẽo. Nhũng giọt nước mắt của các con khi cha ra đi tập trung  mới năm sáu tuổi , thậm chí chỉ là một bào thai. Nay trở về  cùng mẹ tìm lại xác cha, ôm bình tro mang cha gặp lại đồng đội bên này Thái bình Dương .
 Một lần tình cờ xem được những thước phim quay lại cảnh hơn ba mươi lăm năm trở về, tìm thân nhân qua tin tức của những người đồng tù đã chôn cất bạn mình. Lên đèo, xuống vực, có nơi địa phương xác nhận  trước kia lâu lắm, rất ít người còn nhớ ở đây đã từng có trại tù tên này, trại lan tỏa  cả một vùng rộng lớn mênh mông, hoang địa, trùng trùng rừng cây che lấp với khí hậu độc địa.   thế đến bây giờ ở đây cũng vẫn hoang vu không nhà cửa, không người sinh sống đủ hiểu đời sống ngày đó của những người bị khổ sai nơi này. Vậy mà có hơn một chục người cuối cùng trong đó có một vị tướng trẻ tuổi là người chỉ huy tử thủ mặt trận Xuân Lộc đã phải  trải qua hơn mười bảy năm trong tù. Nếu không có chương trình HO do người Mỹ can thiệp chắc gì ông được thả sau ngần ấy năm bị giam giữ, điều này sau khi ra nước ngoài tôi mới biết được.
 Chiến tranh kết thúc, nhà tù là nơi người lính thất trận phải đi đến. Ở địa ngục trần gian này, cái chết chưa phải là điều đáng sợ  nhất đối với người lính bị cải tạo tù đày, mà cực nhọc, đói khát, đày đọa về vật chất, giam hãm tinh thần  mới là nỗi ám ảnh thường trực kể cả khi họ thoát ra khỏi  địa ngục  này (* ) 
Quỳ trên đất gục đầu, đứa con đốt nén hương van vái linh hồn cha vương vất quanh đâu đây ám thị cho con tìm đúng mộ cha. Vậy mà linh nghiệm, theo lời chỉ dẫn những người chôn cất họ đã hữu ý đánh dấu bằng các tảng đá, sau khi tìm vạch khoảng dây leo um tùm và đào bới, thân xác  còn trơ xương không quan quách, gói ghém trong tấm nhựa đã rách bươm  dần dần lộ ra, trong  đó có mảnh  đá nhỏ đục tên người chết được gói theo .
  Bên cạnh những hài cốt may mắn   thân nhân truy tìm, còn bao nhiêu xác thân nữa bị vùi lấp, lạnh lẽo chốn rừng hoang phôi pha theo cát bụi thời gian  .

oOo
   Có lần tôi đọc trong quyển lịch sử Việt Nam lớp Đệ Thất một bài thơ của ai không rõ tên tác giả  nói về hoàn cảnh xã hội  sau chiến tranh  :
               Có phước mới sinh gái
               Có tội mới sinh trai .
               Sinh con gái còn được gả lối xóm
               Sinh con trai nó chết trong  cỏ  gai ! 
               Anh có thấy trên  chiến trường Thanh hải  ư !
               Nghìn năm xương trắng có ai thu …. ! 
  Bốn mươi lăm năm ngày 30/4 chẳng thể nào quên!  Bởi trên từng tấc đất của mùa hè đổ lửa, dọc theo các  bãi biển, trên các con đường quân đội VNCH triệt thoái, đường  quốc lộ 1 trùng trùng người dân  bỏ nhà cửa  chạy vào Saigon  bị đạn pháo của  bộ đội Cộng  sản  nã theo truy đuổi . Bao nhiêu người đã bỏ xác trên những con đường  trở thành đại lộ kinh hoàng bởi  nghìn  năm xương trắng có ai thu?   .
 Quốc ca người Cộng sản Việt Nam chẳng phải đã khẳng định: "Cờ in máu chiến thắng. Đường vinh quang xây xác  quân thù!!! …..Hãy  cố gắng xây dựng lý tưởng Cộng sản và không ngần ngại  cùng nhau tiến lên con đường  vinh quang xây bằng máu và xác người . /.


   Cỏ Biển
  Kỷ niệm  45 năm ngày 30/4/75  --  30/4/ 2020
________________________________________________________________
(*)  Nhà văn  Đỗ Trường  viết về  Phạm Tín An Ninh :  Con đường giải oan cho một cuộc bể dâu .